1. Tổng quan về bệnh Đái tháo đường
Đái tháo đường là một rối loạn chuyển hóa liên quan đến việc tiêu thụ và sử dụng đường trong cơ thể. Ở người bình thường, Tụy sản sinh ra một loại hormone có tên là Insulin nhằm giúp cơ thể tiêu thụ và dự trữ hàm lượng đường hấp thụ từ thức ăn.. Bệnh đái tháo đường xảy ra khi một trong những bất thường sau xuất hiện:
- Chức năng sản xuất Insulin của tụy bị giảm hoặc không thể sản sinh loại hormon này nữa nên sự chuyển hóa đường trong thức ăn cũng bị gián đoạn.
- Cơ thể tăng kháng Insulin, tức là tình trạng các mô đích giảm khả năng hoặc không còn đáp ứng với Insulin.
2. Các xét nghiệm trong bệnh Đái tháo đường:
2.1. Các xét nghiệm chẩn đoán Đái tháo đường:
- Glucose máu khi đói
– Để lấy máu khi đói cần nhịn ăn, nhịn uống (trừ nước) từ 10 đến 16 giờ trước khi lấy máu.
- Nồng độ glucose huyết tương khi đói BT: < 6,1 mmol/L
+ Nếu ≥ 7,0 mmol/L là đái tháo đường.
+ Nếu ≥ 6,1 và < 7,0 mmol/L là giảm dung nạp glucose khi đói.
- Glucose máu ngẫu nhiên:
– Nồng độ glucose ở mẫu máu ngẫu nhiên (không phải khi đói) >11,1mmol/L (> 200mg/dL) ở huyết tương tĩnh mạch là dấu hiệu đái tháo đường.
– Nếu trị số < 11,1 mmol/l cần thiết phải làm thêm nghiệm pháp tăng đường huyết bằng đường uống.
2.2. Các xét nghiệm phân biệt typ Đái tháo đường
- Xét nghiệm định lượng insulin
– Có ý nghĩa lớn không những trong chẩn đoán phân biệt typ đái tháo đường mà cả với những người béo bệu, bệnh nhân u tuyến tuỵ
– Người bình thường khi đói insulin huyết tương: 20 -30 mU/mL
– Người béo phì, khi đói > 30 mU/mL.
– Bệnh nhân đái tháo đường thể “béo”, nồng độ insulin hoặc cao như người béo bệu hoặc gần bình thường.
- Xét nghiệm định lượng peptid C trong máu
– Peptid C là sản phẩm thoái hoá của proinsulin
- Định lượng peptid C ở Người bệnh đái tháo đường điều trị bằng insulin cho biết lượng insulin trong máu là nội sinh hay ngoại sinh từ đó giúp đánh giá hoạt động của tiểu đảo Langerhans
- Định lượng peptid C giúp phân biệt đái tháo đường typ 1 và typ 2.
- Định lượng peptid C thực hiện lúc đói, sau bữa ăn chuẩn, hoặc sau kích thích bằng glucagon, đều có giá trị để đánh giá CN tế bào tuỵ nội tiết.
2.3. Xét nghiệm quản lý và theo dõi Đái tháo đường : HbA1c
– HbA1c được tạo thành do phản ứng glycosyl hoá Hemoglobin. Đời sống của hồng cầu trung bình là 120 ngày do đó xét nghiệm HbA1c giúp đánh giá lượng Glucose trong máu 2 – 3 tháng trước đó.
– Giá trị HbA1c bình thường: 4 – 6%, ở Người bệnh đái thao đường nồng độ HbA1c tăng
– Vai trò của xét nghiệm HbA1c:
+ Đánh giá nồng độ glucose trước đó 2 – 3 tháng
+ Đánh giá tác dụng điều trị trong vòng 1 – 2 tháng
+ Dự báo trước hậu quả thai sản
+ Dự báo trước nguy cơ biến chứng.